Tôi vốn không mặn mà lắm với những cuốn sách viết về các tỉ phú, bởi vì tôi cho rằng không ai có thể thành thực trả lời hai câu hỏi sau đây:

  1. Ông/bà có chính xác bao nhiêu tiền?
  2. Làm thế nào mà ông/bà có thể kiếm được nhiều tiền như vậy?

Nhưng trong cuộc sống thường có một số ngoại lệ, chẳng hạn như quyển sách mà bạn đang cầm trên tay là một trường hợp đặc biệt khiến tôi có thể vui lòng phá lệ để giới thiệu những điều tuyệt vời nhất mà nó sẽ đem lại.

Trong gần 20 năm qua, Bill Gates và Warren Buffett là hai người liên tục đứng đầu danh sách những người giàu nhất thế giới. Người đầu tiên đã quá nổi tiếng với chúng ta. Còn người thứ hai chỉ mới “nổi” lên gần đây đối với công chúng Việt Nam, phần lớn nhờ vào cơn sốt chứng khoán năm 2006-2007, vì Warren Buffett được xem như là nhà đầu tư chứng khoán vĩ đại nhất mọi thời đại.

* * *

Buffett là một tỉ phú đặc biệt. Đặc biệt trong cách ông kiếm tiền và sử dụng tiền. Rất ít người có thể sánh kịp tốc độ kiếm tiền vừa nhanh vừa bền vững như ông. Trong danh sách những người giàu nhất thế giới suốt gần 30 năm qua, nhiều người đi vào danh sách nhanh như cách họ phất lên, và cũng sớm bị rời khỏi danh sách như cách tài sản họ lụi tàn. Nhưng Buffett thường xuyên có mặt trong danh sách và luôn là cái tên được mọi người ngưỡng mộ nhất.

Buffett hoàn toàn khác biệt so với những người giàu có khác. Mặc dù được xem là nhà đầu tư cổ phiếu vĩ đại nhất thời đại, ông không làm việc ở Phố Wall – nơi quy tụ những đế chế cũng như bộ óc tài chính vĩ đại nhất – và tự cho rằng mình không thuộc về thế giới đó. Mặc dù là một trong những người giàu nhất hành tinh, ông vẫn sống trong một căn nhà đơn giản suốt hàng chục năm qua, đi chiếc xe hơi bình thường nhất, làm việc ở một văn phòng nhỏ và đơn giản (thậm chí không cần đến máy vi tính để theo dõi bảng giá cổ phiếu và phân tích thông tin!). Người ta không thể biết Buffett có chính xác bao nhiêu tiền nếu chỉ nhìn vào cách ông sinh hoạt và chi tiêu.

Nhưng có lẽ điều đặc biệt nhất, và cũng khiến ông được ngưỡng mộ nhất, ở Buffett là ông có thể thoải mái giải thích cho mọi người biết ông có bao nhiêu tiền và ông đã kiếm nhiều tiền như thế nào. Gần 40 năm qua, Buffett thường xuyên viết các bản Báo cáo Thường niên cho cổ đông của tập đoàn Berkshire Hathaway mà ông điều hành. Trong đó, Buffett trình bày rõ ràng các quyết định kinh doanh và đầu tư mà ông và các cộng sự đã thực hiện. Bất kỳ ai, không cần là cổ đông của Berkshire Hathaway, đều có thể được đọc đầy đủ tất cả các bản Báo cáo Thường niên này (thậm chí chúng còn được đăng tải miễn phí trên Internet).

Các bản Báo cáo này là nguồn thông tin duy nhất để chúng ta có thể hiểu về phương pháp làm giàu của Buffett, vì ông rất ít xuất hiện trước công chúng, đúng như tính cách của ông. Nhưng chúng là một nguồn tài liệu vô giá (theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng), trong đó Buffett, bằng sự uyên bác lẫn khiêm tốn của mình, đã vui vẻ trình bày tất cả mọi khía cạnh liên quan đến tư duy kinh doanh và đầu tư của mình cho mọi người cùng hiểu, dù người đó là một cổ đông bình thường, một sinh viên, hay thậm chí một đối thủ cạnh tranh của ông.

Vì vậy, để hiểu được cuộc đời và phương pháp của Buffett thì chỉ có một cách duy nhất: đọc và hiểu toàn bộ các bản Báo cáo đó. Với số lượng gần 40 bản, và mỗi bản dài hàng chục trang thì đây không phải là một việc đơn giản cho những người như chúng ta. May mắn thay, tác giả Robert G. Hagstrom đã thực hiện một công việc vô cùng hữu ích: dày công nghiên cứu tất cả các tài liệu đó và tóm tắt thành một cuốn sách đầy đủ nhất về Buffett, được trình bày sao cho một người chưa có kinh nghiệm về kinh doanh và tài chính cũng có thể hiểu được. Đó cũng chính là nguồn gốc ra đời và mục tiêu của cuốn sách mà các bạn đang cầm trên tay: Phong cách đầu tư Warren Buffett (The Warren Buffett Way).

***

Trong vô vàn sách về Warren Buffett đang tràn ngập trên các kệ sách ở Việt Nam hiện nay, cuốn sách này, do Alpha Books mua bản quyền, dịch và xuất bản, có một vị thế riêng. Như đã nói ở trên, số người thường xuyên tiếp xúc để thực sự hiểu Buffett chỉ đếm trên đầu ngón tay, và cho đến nay gần như chưa có ai trong số họ viết một cuốn sách nào về Buffett. Vì vậy, mọi cuốn sách hoặc bài viết về Buffett mà không dựa trên các bản Báo cáo Thường niên do chính tay ông viết đều hoàn toàn không có căn cứ. Rất nhiều tựa sách, bài báo về Buffett hiện nay, do tổng hợp từ quá nhiều nguồn khác nhau, mắc phải khiếm khuyết này, cho nên thật đáng tiếc khi đa số nhà đầu tư ở Việt Nam vẫn chưa có cái nhìn chính xác về sự nghiệp và phương pháp của Warren Buffett.

Cuốn sách này, tập hợp từ các báo cáo của Buffett, được Buffett đọc và chấp nhận cho xuất bản, hoàn toàn có thể xem là một trong những phương tiện tốt nhất để bạn đọc Việt Nam có thể tiếp cận với phương pháp đầu tư của Buffett.

Trái với nhận định của số đông nhà đầu tư Việt Nam hiện nay, rằng Buffett là một con quỷ chuyên hút máu các doanh nghiệp bằng thủ đoạn mua rẻ bán đắt, rằng suy nghĩ của ông vô cùng cao siêu nên người bình thường không thể hiểu và học hỏi được. Phong cách đầu tư Warren Buffett sẽ giúp bạn có một cái nhìn khác và chính xác hơn. Phương pháp của Buffett rất chân thật và vô cùng đơn giản. Tôi cũng tin rằng ai trong chúng ta cũng có thể hiểu được phương pháp của ông và hoàn toàn có thể áp dụng chúng cho môi trường ở Việt Nam.

Dĩ nhiên, không phải ai sau khi nắm được phương pháp của Buffett là tự nhiên có thể giàu như Buffett được. Nếu điều đó đúng thì chính bản thân tôi đã không rảnh rỗi ngồi đây viết những dòng giới thiệu này rồi!? Hiểu được phương pháp của Buffett, điều mà tôi tin rằng có thể thực hiện được sau khi đọc thấu đáo cuốn sách này, sẽ giúp bạn có nền tảng vững chắc trong quá trình tìm ra con đường làm giàu của riêng mình. Vì ngay cả Buffett, trong những năm tháng khởi nghiệp cũng phải bỏ ra nhiều thời gian để học hỏi từ những người khác trước khi tìm ra phương pháp thành công của ông.

Ngày 29 tháng 9 năm 2007

LÊ ĐÌNH LĨNH NAM

Blog Thợ Code Học Làm giàu

( www.cofieu.com.vn/blog)

Trích đoạn sách hay

Buffett ngày hôm nay

Từ cuối những năm 1990 đến nay, Buffett không còn chủ động trên thị trường chứng khoán như những năm 1980 và đầu những năm 1990 nữa. Nhiều người nhận thấy sự thiếu chủ động này và băn khoăn không biết đó có phải là dấu hiệu cho thấy thị trường đã đạt đến mức đỉnh cao. Những người khác lại dựa vào lý thuyết và quả quyết rằng việc thiếu hụt những vụ mua bán chứng khoán quan trọng chỉ đơn giản là do loại chứng khoán Buffett thích mua từ lâu đã không còn được bán ở mức giá hấp dẫn nữa.

Chúng ta biết Buffett thích “mua sự chắc chắn với giá chiết khấu”. “Sự chắc chắn” ở đây được xác định nhờ dự đoán tình hình kinh tế của một công ty. Càng tiên liệu chính xác tình hình kinh tế của một công ty, thì độ tin cậy của những đánh giá về công ty sẽ càng chắc chắn hơn. Khi chúng ta nhìn vào bản danh sách những chứng khoán Buffett sở hữu cũng như những công ty mà Berkshire sở hữu, chúng ta sẽ bất ngờ trước khả năng tiên liệu đó. Phần ‘’chiết khấu’’ trong bản báo cáo rõ ràng là ám chỉ giá chứng khoán.

Khi biết Buffett thích mua chứng khoán có khả năng dự đoán tình trạng kinh tế cao ở mức giá thấp hơn giá trị thực, chúng ta có thể kết luận rằng khi hoạt động mua của ông bất ngờ chững lại chứng tỏ có sự thiếu hụt lựa chọn trên đấu trường này. Tôi tin chắc rằng, nếu hiện nay Coca-Cola, Gillette, hoặc các công ty khác bán cổ phiếu với giá 20 xu, thì Buffett sẽ đưa thêm nhiều cổ phiếu hơn nữa vào danh mục đầu tư của Berkshire.

Chúng ta biết nguyên tắc đầu tư của Warren Buffett là chỉ kinh doanh trong “vòng tròn khả năng”. Hãy coi vòng tròn khả năng này như quá trình tích luỹ kinh nghiệm của bạn. Nếu một người nào đó điều hành thành công một ngành kinh doanh nào đó trong một thập kỷ hoặc hơn, chúng ta nói rằng người đó có trình độ năng lực cao để đạt được mục tiêu. Tuy vậy, nếu một người chỉ có rất ít năm kinh nghiệm điều hành một ngành kinh doanh mới, chúng ta sẽ có lý do nghi ngờ trình độ, khả năng của người đó. Có lẽ trong suy nghĩ của Buffett, kinh nghiệm điều hành và nghiên cứu kinh doanh danh mục đầu tư của Berkshire đặt ra vòng tròn khả năng quá cao đến mức khó đạt được một trình độ tương tự đối với am hiểu một ngành mới.

Vì vậy, có lẽ Buffett đang gặp phải tình huống tiến thoái lưỡng nan. Với vòng tròn khả năng của ông, những loại chứng khoán ông thích mua hiện không được bán với mức giá chiết khấu. Cùng lúc đó, bên ngoài vòng tròn khả năng của ông, những doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn đang dần đi vào hoạt động trong những ngành mới mà không đạt được mức độ chắc chắn về mặt kinh tế cao như Buffett yêu cầu. Nếu phân tích này đúng, nó lý giải nguyên nhân tại sao trong vài năm trở lại đây, ông không thực hiện vụ mua bán chứng khoán nào lớn.

Chúng ta thực sự ngốc nghếch khi giả thiết rằng bởi vì danh mục chứng khoán sẵn sàng để đầu tư đang giảm dần, nên Warren Buffett không có sự lựa chọn đầu tư nào. Chắc chắn, ông vẫn tích cực chủ động trong thị trường chứng khoán lợi tức cố định, gồm nắm giữ trái phiếu lợi tức cao trong năm 2002. Ông cũng cảnh báo về mua bán song hành theo chu kỳ, nhưng cần phải xem xét khoản vốn đầu tư Buffett cần để đầu tư nhằm thu được những khoản lợi nhuận lớn, các thị trường mua bán song hành có lẽ không mang lại lợi nhuận như trước đây nữa.

Song, những cổ đông của Berkshire Hathaway không nên cảm thấy họ đang bị tước đi các cơ hội. Thông thường, các cổ đông quên mất một trong những nguyên tắc kinh doanh quan trọng nhất có liên quan tới chủ sở hữu mà Buffett vạch ra mỗi năm trong bản báo cáo thường niên. Nguyên lý thứ tư chỉ ra rằng: “Mức độ ưu tiên sẽ giúp chúng ta đạt được mục tiêu (tối đa hoá tỉ lệ lợi nhuận trung bình thường niên của Berkshire) thông qua việc sở hữu trực tiếp một nhóm các ngành kinh doanh đa dạng tạo ra tiền mặt và luôn thu được mức lợi nhuận trên vốn vượt mức trung bình. Lựa chọn thứ hai của chúng ta là sở hữu cổ phần của những doanh nghiệp đạt được thành công ban đầu bằng cách mua bán những cổ phiếu thường trên thị trường.

Trong những năm mới khởi sự, Berkshire sở hữu những cổ phiếu thường có giá trị kinh tế nhất. Hiện tại, khi giá cổ phiếu thường tăng đáng kể và sức mua cổ phiếu của Berkshire phát triển nhanh chóng, chiến lược mua lại toàn bộ các công ty từng được Buffett tuyên bố là ưu tiên hàng đầu.

Cũng có một nhân tố cá nhân ở đây. Chúng ta biết, Buffett rất thích mối quan hệ của ông với các Giám đốc Điều hành và rất tự hào về các hoạt động kinh doanh của Berkshire. Ngược lại, sự lo lắng khi là một cổ đông của các công ty thương mại, với những vấn đề về thù lao điều hành và chiến lược tái đầu tư vốn đầy nghi ngờ đi kèm với quyền sở hữu, khiến việc trở thành một cổ đông không còn hấp dẫn với Buffett như trước đây. Nếu nền kinh tế không hấp dẫn, vậy tại sao Buffett lại lựa chọn để phải chịu đựng sự thất bại trong quản lý công ty kết hợp với việc là một cổ đông lớn?

Hoạt động duy nhất mà Buffett tham gia điều hành hoạt động kinh doanh của Berkshire là đặt ra mức thù lao điều hành và phân bổ lợi nhuận. Bên trong thế giới của Berkshire, có những quyết định rất hợp lý. Bên ngoài thị trường chứng khoán, các quyết định thù lao điều hành và phân bổ nguồn vốn không phải lúc nào cũng hợp lý.

Điều đó có nghĩa gì đối với các nhà đầu tư cá nhân? Bởi vì Buffett không chủ động tham gia vào thị trường chứng khoán, nên họ cũng không tự động rút lui? Chiến lược lựa chọn của Buffett là mua đứt các công ty trong ngành kinh doanh, một lựa chọn mà đa số các nhà đầu tư đều không làm được. Vậy, họ nên tiến hành đầu tư như thế nào?

Có hai lựa chọn rất rõ ràng. Một là tiến hành đầu tư theo Berkshire Hathaway, và cũng tham gia vào tình trạng kinh tế của những ngành kinh doanh đáng chú ý. Lựa chọn thứ hai là áp dụng phương pháp đầu tư của Buffett, mở rộng vòng tròn khả năng của bạn bằng cách chăm chỉ nghiên cứu những mô hình kinh doanh của các công ty đang tham gia vào khu vực Kinh tế Mới, và bắt đầu khởi sắc.

Tôi tin rằng những nguyên lý cơ bản giúp Buffett luôn đưa ra quyết định dứt khoát và chúng sẽ tiếp tục mang đến cơ hội cho những nhà đầu tư thận trọng làm tốt hơn khi đầu tư vào chỉ số S&P 500. Mục đích của cuốn sách này là trình bày những nguyên lý đó theo cách mà các nhà đầu tư thận trọng có thể hiểu và sử dụng được.

HỌC VẤN CỦA WARREN BUFFETT

Rất ít người có thể tiến gần tới kỷ lục đầu tư của Warren Buffett, và sự thực là không ai có thể vượt kỷ lục này. Suốt bốn thập kỷ chứng kiến những thăng trầm của thị trường chứng khoán, ông vẫn tiếp tục gặt hái những thành công mà không ai có thể sánh kịp. Việc ông làm không có gì là hào nhoáng, thậm chí đôi khi còn rất không thiện ý. Tuy vậy, hết lần này đến lần khác, ông đánh bại những nhà đầu tư khác – những người mà hành động mạo hiểm mang lại cho họ thành công tạm thời, và danh tiếng nhất thời. Rồi, ông quan sát, mỉm cười và tiếp tục con đường của mình.

Vậy Buffett đúc kết triết lý đầu tư của mình như thế nào? Ai là người có ảnh hưởng tới lối suy nghĩ của ông, và ông kết hợp những hướng dẫn của họ vào thực tiễn ra sao? Hay nói cách khác, thiên tài đặc biệt tạo ra sự khác biệt như thế nào?

Phương pháp đầu tư của Warren Buffett là của riêng ông, tuy vậy nó dựa trên những triết lý được lĩnh hội từ bốn nhân vật nổi tiếng: Benjamin Graham, Philip Fisher, John Burr Williams, và Charles Munger. Chính họ ảnh hưởng tới những kiến thức tài chính của Buffett, cả chính thức và không chính thức.

Ba người đầu tiên là những nhà giáo dục cổ điển, và người cuối cùng vừa là cộng sự, vừa là người bạn chí cốt của ông. Tất cả đều có ảnh hưởng quan trọng tới lối suy nghĩ của Buffett. Họ đều có rất nhiều lý thuyết để cung cấp cho nhà đầu tư hiện đại.

Benjamin Graham

Graham được coi là một nhân vật xuất chúng trong phân tích tài chính. Ông xứng đáng với danh hiệu này bởi “trước ông không hề có nghề phân tích tài chính chuyên nghiệp và sau ông, người ta bắt đầu gọi tên nó như thế”. Hai tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Securities Analysis (Phân tích chứng khoán), đồng tác giả với David Dodd, được xuất bản lần đầu năm 1934; và tác phẩm The Intelligent Investor (Nhà đầu tư thông minh), được xuất bản lần đầu năm 1949.

Phân tích chứng khoán xuất hiện chỉ vài năm sau đợt khủng hoảng thị trường chứng khoán năm 1929 và giữa cuộc suy thoái trầm trọng của nước Mỹ. Trong khi những học giả khác tìm kiếm lời giải thích cho hiện tượng kinh tế, thì Graham lại giúp đỡ mọi người giành lại vị thế vững chắc về tài chính và tiếp tục đầu tư để thu về lợi nhuận.

Graham bắt đầu sự nghiệp tại phố Wall với nghề đưa tin tức tại công ty môi giới Newburger, Henderson &Loeb, niêm yết giá cổ phiếu và trái phiếu trên bảng với mức lương 12 đô la một tuần. Từ một người đưa tin tức, ông tiếp tục phát triển sự nghiệp với việc viết các bản báo cáo nghiên cứu và sớm được chấp nhận là một thành viên của công ty. Đến năm 1919, mức lương của ông tăng lên 600 nghìn đô la một năm. Lúc đó, ông 25 tuổi.

Năm 1926, cùng với Jerome Newma, Graham thành lập Công ty hợp danh đầu tư. Mười ba năm sau, chính công ty này đã thuê Warren Buffett. Graham-Newman sống sót qua cuộc khủng hoảng 1929, cuộc Đại khủng hoảng, Chiến tranh Thế giới thứ hai, và chiến tranh Triều Tiên trước khi bị giải thể vào năm 1956.

Từ năm 1928 đến hết năm 1956, khi đang làm việc cho Graham – Newman, Graham tham gia giảng dạy các khoá học buổi tối về tài chính tại Đại học Columbia. Rất ít người biết rằng, trong cuộc Đại khủng hoảng năm 1929, Graham bị thiệt hại nặng nề về tài chính. Lần thứ hai trong cuộc đời, (lần đầu xảy ra khi cha ông qua đời, để lại một gia đình không hề được đảm bảo về mặt tài chính), Graham bắt đầu xây dựng lại cơ nghiệp. Nơi trú ẩn của giới học thuật mang đến cho ông cơ hội để suy ngẫm. Cùng với những ý kiến đóng góp của David Dodd, cũng là một giáo sư tại Đại học Columbia, Graham viết một tác phẩm mà sau đó trở thành một chuyên luận kinh điển về đầu tư thận trọng: Phân tích chứng khoán. Graham và Dodd đã có hơn 15 năm kinh nghiệm đầu tư. Hai người mất bốn năm để hoàn thành cuốn sách.

Về bản chất, Phân tích chứng khoán là một danh mục đầu tư chứng khoán thường đa dạng, được lựa chọn kỹ lưỡng dựa trên cơ sở giá cả hợp lý, hứa hẹn những vụ đầu tư hoàn hảo. Từng bước, từng bước đầy thận trọng, Graham giúp các nhà đầu tư nhìn ra logic trong phương pháp của ông.

Khó khăn đầu tiên đó là Graham phải giải quyết sự thiếu hụt định nghĩa chung về đầu tư để giúp khái niệm này thực sự khác biệt với đầu cơ. Xem xét tính phức tạp của vấn đề, Graham đưa ra định nghĩa riêng: “Đầu tư là một hoạt động dựa trên phân tích kỹ lưỡng, hứa hẹn sự an toàn của nguồn vốn và một lợi nhuận thoả đáng. Những hoạt động không đáp ứng được các yêu cầu này là đầu cơ”.

Ở đây, Graham muốn nói gì khi dùng từ “phân tích kỹ lưỡng’’? Chỉ đơn giản là: “Một nghiên cứu cẩn thận về số liệu thực tế nhằm cố gắng rút ra những kết luận dựa trên các nguyên lý đã được xây dựng và tính logic hoàn hảo’’.

Phần tiếp theo trong định nghĩa của Graham có tính chất bình phẩm: Một vụ đầu tư thực sự phải có hai tiêu chuẩn là mức độ an toàn nhất định của nguồn vốn và tỉ lệ lợi nhuận thoả đáng. Theo ông, tính an toàn không hề tuyệt đối. Những sự cố bất ngờ hoặc không chắc chắn có thể biến một trái phiếu an toàn thành không trả được nợ. Hơn thế nữa, các nhà đầu tư nên tìm kiếm những thứ được coi là an toàn từ sự thất bại.

Lợi nhuận thoả đáng – Yếu tố cần thiết thứ hai – không chỉ bao gồm lợi tức mà còn cả sự gia tăng trong giá cả. Graham nhấn mạnh “sự thoả đáng” là một thuật ngữ chủ quan. Lợi tức có thể bao nhiêu cũng được, tuy nhiên không được thấp, chỉ cần các nhà đầu tư hành động khôn ngoan và tôn trọng triệt để định nghĩa đầy đủ về đầu tư.

Vào khoảng giữa những năm 1929 và 1932, Graham đưa ra định nghĩa này và khi trái phiếu trung bình Dow Jones giảm từ 97,70 điểm xuống còn 65,78 điểm, trái phiếu từ lâu không còn bị coi là những vụ đầu tư thuần túy thiếu cân nhắc. Giống như cổ phiếu, trái phiếu mất giá trị đáng kể và rất nhiều công ty đã bị phá sản. Vì vậy, chúng ta cần phân biệt rạch ròi giữa những đặc điểm đầu tư của cả cổ phiếu và trái phiếu với bản sao đầu cơ của chúng.

Graham biến khái niệm đầu tư hoàn hảo thành một khẩu hiệu mà ông gọi là “biên độ an toàn”. Với khẩu hiệu này, ông đưa ra một phương pháp độc nhất trong đầu tư cả chứng khoán, cổ phiếu và trái phiếu.

Thực chất, biên độ an toàn tồn tại khi chứng khoán được bán với mức giá thấp hơn giá trị thực. Trong những năm 1930 và 1940, khái niệm mua chứng khoán dưới giá trị mà không quan tâm tới mức giá thị trường là một ý kiến mới lạ. Mục tiêu của Graham là thực hiện một chiến lược như vậy.

Theo Graham, đưa ra một khái niệm về biên độ an toàn cho trái phiếu không quá khó. Chúng ta không cần xác định chính xác lợi tức tương lai của một công ty nhưng lại cần lưu ý sự chênh lệch giữa lợi nhuận và chi phí cố định. Nếu biên độ an toàn đủ lớn, nhà đầu tư sẽ được bảo vệ trước sự giảm giá đột ngột trong thu nhập của công ty. Ví dụ, nếu một nhà phân tích tổng kết lịch sử hoạt động của một công ty và phát hiện ra rằng, trung bình năm năm trước đây công ty đạt mức lợi nhuận hàng năm gấp năm lần chi phí cố định thì trái phiếu của công ty đó có biên độ an toàn. Thử nghiệm thực tế đã chứng minh khả năng của Graham áp dụng lý luận đó đối với cổ phiếu thường. Ông đưa ra lý do là nếu phần chênh lệch giữa giá một cổ phiếu và giá trị nội tại của một công ty đủ lớn, thì chúng ta có thể sử dụng khái niệm biên độ an toàn để lựa chọn cổ phiếu.

Để thực hiện có hệ thống chiến lược này, Graham thừa nhận, các nhà đầu tư cần biết cách xác định loại cổ phiếu nào đang bị định giá dưới giá trị thực. Điều đó có nghĩa là họ cần một phương pháp xác định giá trị nội tại của một công ty. Khái niệm về giá trị nội tại của một công ty mà Graham nêu ra trong Phân tích Chứng khoán, là giá trị “được xác định bằng số liệu thực tế”. Những số liệu thực tế này bao gồm tài sản của công ty, lợi tức và cổ tức, và bất kỳ triển vọng tương lai nào của công ty.

Graham thừa nhận rằng, nhân tố quan trọng duy nhất để xác định giá trị của một công ty là mức doanh lợi tương lai. Nói đơn giản, giá trị nội tại của một công ty được tìm ra bằng cách ước tính lợi nhuận của công ty và nhân lợi nhuận với một nhân tố vốn thích hợp. Tính ổn định của lợi nhuận, tài sản, chính sách cổ tức và tình trạng tài chính lành mạnh của công ty có ảnh hưởng tới nhân tố vốn này.

Graham yêu cầu chúng ta chấp nhận rằng giá trị thực là một khái niệm khó hiểu. Nó khác biệt hoàn toàn với giá niêm yết trên thị trường. Trước tiên, giá trị thực thường được hiểu giống giá trị sổ sách của một công ty, hoặc tổng tài sản thực trừ đi nợ. Khái niệm này dẫn tới sự tin tưởng ban đầu rằng giá trị thực là rõ ràng. Tuy vậy, các phân tích chỉ ra rằng giá trị của một công ty không chỉ là giá trị tài sản thực mà còn bao gồm giá trị lợi nhuận do những tài sản này sinh ra. Graham đề xuất ý kiến rằng không cần xác định chính xác giá trị thực của một công ty. Thay vào đó, các nhà đầu tư nên chấp nhận phương pháp khoảng giá trị. Thậm chí, một giá trị tương đối so với giá bán sẽ đủ để đánh giá biên độ an toàn.

Theo Graham, có hai quy tắc trong đầu tư. Quy tắc thứ nhất là đừng để thua lỗ. Quy tắc thứ hai là đừng quên quy tắc thứ nhất. Triết lý “đừng để thua lỗ” là kim chỉ nam hướng Graham tới hai phương pháp lựa chọn cổ phiếu thường gắn với biên độ an toàn. Phương pháp thứ nhất là mua một công ty với giá thấp hơn 2/3 giá trị tài sản ròng của nó còn phương pháp thứ hai là tập trung vào những cổ phiếu có tỉ lệ giá thị trường và lợi nhuận ròng trên mỗi cổ phiếu của công ty (chỉ số P/E) thấp.

Mua chứng khoán với giá thấp hơn 2/3 giá trị tài sản ròng rất phù hợp với khả năng phán đoán của Graham và thoả mãn mong muốn lý giải trên cơ sở tính toán của ông. Graham không quá quan tâm tới nhà xưởng, bất động sản và trang thiết bị của một công ty. Hơn nữa, ông đã khấu trừ toàn bộ khoản phải trả trong ngắn hạn và dài hạn của công ty. Khoản còn lại sẽ là giá trị tài sản ròng hiện tại. Graham giải thích, nếu giá cổ phiếu ở dưới giá trị mỗi cổ phần, biên độ an toàn đã tồn tại và việc mua vào được đảm bảo.

Graham coi đây là một biện pháp đầu tư hết sức dễ hiểu, nhưng ông thừa nhận rằng chờ đợi thị trường điều chỉnh trước khi đầu tư có thể là bất hợp lý. Ông bắt đầu xây dựng phương pháp thứ hai để mua cổ phiếu. Ông tập trung mua những cổ phiếu đang giảm giá và được bán với tỉ lệ P/E thấp. Thêm vào đó, công ty phải có giá trị tài sản ròng; nợ của công ty phải ít hơn giá trị của công ty.

Qua nhiều năm, nhiều nhà đầu tư khác đã tìm kiếm con đường tắt tương tự để xác định giá trị thực của cổ phiếu. Tỉ lệ P/E thấp là một lựa chọn chung. Tuy vậy, chúng ta biết rằng, đưa ra quyết định chỉ dựa vào tỉ lệ P/E không đủ để đảm bảo lợi nhuận. Ngày nay, hầu hết các nhà đầu tư dựa vào định nghĩa có giá trị kinh điển của John Burr Williams, được mô tả ở phần sau của chương này: giá trị của bất kỳ vụ đầu tư nào là giá trị hiện tại được chiết khấu của dòng tiền tương lai.

Những ý tưởng cơ bản nhất về đầu tư là xem xét các cổ phiếu như các công ty dưới góc độ kinh doanh, biến những biến động của thị trường thành lợi thế của mình và tìm kiếm một biên độ an toàn. Đó là điều Ben Graham dạy chúng ta. Một trăm năm sau, chúng sẽ vẫn là nền tảng của đầu tư.

Phương Pháp Đầu Tư Warren Buffett

Nguồn: Internet

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here