“Columbus khám phá ra nước Mỹ, Jefferson định hình nó, và Ray Kroc đem Big Mac đến với nó.” – Tom Robbins, tạp chí Esquire.

“Với bất cứ ai muốn tìm hiểu nhiều chi tiết đời tư và những câu chuyện kinh doanh tuyệt diệu của MCDonald’s, Ray Kroc đã tạo nên thương hiệu MCDonald’s như thế nào? là cuốn sách đáng để đọc.” – The Houston Post.

“Có nhiều điều bất ngờ trên từng trang của câu chuyện thẳng thắn, dí domt, từ bần-cùng-tới-giàu-có này.” – The Boston Globe.

Trích đoạn sách hay

Gần như không có gì là không thể đạt được nếu bạn hoàn toàn đặt tâm trí của mình vào đó.

Tôi đã nói điều đó với một nhóm sinh viên tốt nghiệp tại Đại học Dartmouth vào tháng Ba năm 1976. Họ yêu cầu tôi nói chuyện về nghệ thuật khởi nghiệp – làm thế nào để trở thành người tiên phong trong một dự án kinh doanh. “Bạn sẽ không thể đạt được nó một cách miễn phí,” tôi nói. “Và bạn phải chấp nhận rủi ro. Tôi không có ý là hãy liều lĩnh, điều đó thật là điên rồ. Nhưng bạn dám chịu rủi ro, và trong một số trường hợp, bạn sẽ phải trắng tay. Nếu bạn tin vào điều gì đó, bạn phải dồn mọi tâm huyết của mình vào đó. Sẵn sàng đương đầu với những rủi ro hợp lý là một phần của thách thức. Đó cũng là niềm vui.”

Tôi đã có rất nhiều niềm vui vào đầu năm 1938 khi quyết định nghỉ việc và khởi đầu kinh doanh với chiếc Multimixer mới toanh trong một va li hàng mẫu lớn. Và các chủ nhà hàng và quầy bán nước giải khát trên cả nước đang rùng mình trước dự đoán về tiềm năng tương lai của sản phẩm này. Ít nhất thì tôi cũng cho là họ nghĩ vậy. Và không mất nhiều thời gian để tôi khám phá ra rằng mình đã hoàn toàn sai lầm.

Một chủ nhà hàng đang có sáu chiếc máy trộn loại một trục đã đánh giá thấp chiếc máy trộn hơn 13kg bằng kim loại sáng bóng của tôi, và ông chia sẻ rằng ông không muốn cho tất cả các đồ uống của mình vào một máy trộn. Nếu chiếc máy đó hỏng, hoạt động kinh doanh sẽ bị dừng lại cho đến khi nó được sửa chữa. Trong khi đó, với sáu chiếc máy riêng biệt, rất ít khả năng cả sáu chiếc đều hỏng cùng một lúc. Và thậm chí là nếu ba hoặc năm trong số đó không hoạt động được, ông vẫn có thể làm món nước lúa mạch trộn. Đó là một quan điểm rất khó để thay đổi. Tôi đã gặp phải rất nhiều chủ nhà hàng không có chút đồng cảm nào. Một vài người được thuyết phục, còn những người khác không bao giờ nhận ra tiềm năng của nó. Nhưng cũng có một số lượng khách hàng quan tâm đủ để duy trì niềm tin của tôi vào sản phẩm này. Tôi tin rằng nó sẽ thành công.

Tôi là một ban nhạc diễu hành chỉ có một nhạc công. Tôi có một văn phòng nhỏ xíu trong tòa nhà LaSalle-Wacker ở Chicago, nhưng tôi hiếm khi ở đó. Thư ký của tôi điều hành văn phòng trong khi tôi đi công tác khắp cả nước. Xét theo tính mới mẻ của sản phẩm này đối với thị trường thì doanh số cũng khá ổn. Tôi có thể cảm thấy thị trường đang bắt đầu tăng trưởng nhưng tôi rất không hài lòng với cơ cấu tài chính của công ty. Với việc nắm giữ 60% cổ phần, Sanitary Cup có thể hạn chế mức lương của tôi, và John Clark giữ nó bằng mức khi tôi rời Lily Tulip Cup. Sau hơn hai năm, tôi quyết tâm tìm cách giành lại 60% đó. Vì vậy, tôi đã đến gặp Clark và thảo luận với ông ta. Đó chính là lúc tôi biết được ông ta đã lừa tôi như thế nào. Anh em nhà Coue đã cho ông ta toàn bộ quyền lợi liên quan đến hợp đồng này. Có lẽ họ không quan tâm đến Multimixer chút nào cả, và ông ta đang kiếm chác trên tâm huyết và sức lao động của tôi. Tôi giận điên người nhưng chẳng thể làm gì được.

“Tôi nghĩ chiếc máy mà anh đang bán có một tương lai đầy hứa hẹn, Ray,” ông ta nói. “Tôi đã sẵn sàng giảm giá trị hiện tại của mình để cậu có thể kiếm được lợi nhuận nhiều hơn trong tương lai. Nhưng nếu cậu vẫn muốn có phần cổ phiếu của tôi thì phải nói để cậu biết, tôi muốn thu về một khoản lợi khá lớn từ nguồn vốn đầu tư ban đầu.”

Mặc dù thực tế là tôi chẳng cần đến khoản vốn đầu tư ban đầu chết tiệt của ông ta, và cả Earl Prince cũng vậy.

“Được rồi,” tôi nói, “bao nhiêu?”

“68.000 đô-la,” ông ta nói hùng hồn. Không biết ông ta có bị nghẹn khi nói ra khoản tiền lớn như thế không nữa.

Đó là tất cả những gì tôi nhớ được sau cuộc trò chuyện. Tôi chắc rằng mình đã nói gì đó nhưng đầu óc tôi đã trở nên mụ mị bởi yêu cầu tàn bạo của ông ta đến nỗi không nghĩ được gì nữa. Như đổ thêm dầu vào lửa, ông ta đòi tôi trả toàn bộ bằng tiền mặt. Tất nhiên là tôi không thể có nhiều tiền mặt như vậy. Vì vậy, ông ta bắt tôi phải chấp nhận một thỏa thuận bất lợi nhất mà ông ta có thể nghĩ ra. Tôi phải đồng ý trả cho ông ta 12.000 đô-la tiền mặt. Phần còn lại sẽ được thanh toán trong vòng 5 năm, bao gồm cả lãi suất. Mức lương và trợ cấp công tác phí của tôi phải giữ như mức hiện tại. Vì vậy, trên thực tế, những gì tôi đang làm là trả cho ông ta toàn bộ lợi nhuận mà công ty kiếm được.

Tôi không biết liệu có thể vay tiền ở đâu nữa, nhưng tôi quyết tâm làm điều đó. Cuối cùng thì hầu hết tiền tôi huy động được đều đến từ ngôi nhà mới của tôi ở Arlington Heights. Tôi xoay xở để đàm phán được một khoản vay đáng kể từ việc thế chấp ngôi nhà, nhiều đến mức có thể làm cho Ethel khiếp đảm. Cô ấy đã hết lo ngại về việc tôi trở thành Ông Multimixer, nhưng chắc hẳn cô ấy không thể vượt qua được cú sốc khi phát hiện ra chúng tôi đang nợ gần 100.000 đô-la. Cô ấy chắc chắn là không thể chịu nổi việc đó.

Với tôi, đây là giai đoạn đầu tiên của việc mài sắt nên kim – xây dựng một tượng đài chủ nghĩa tư bản cho riêng cá nhân tôi. Theo như cách nhìn của thời phong kiến, tôi đã cống hiến suốt nhiều năm trước khi có thể trỗi dậy cùng McDonald’s dựa trên nền tảng mà tôi đã xây dựng. Có lẽ nếu không có khoảng thời gian khó khăn đó thì tôi đã không thể bền chí bền gan để vượt qua những gánh nặng tài chính lớn hơn nhiều về sau. Tôi học được cách không để các rắc rối đánh bại mình. Tôi sẽ không lo lắng về nhiều hơn một vấn đề cùng một lúc, và tôi sẽ không để cho những phiền toái vô ích về một vấn đề, bất kể nó quan trọng đến đâu, làm mình mất ngủ. Nói thì dễ hơn làm. Tôi đã làm bằng cách tự kỷ ám thị. Có thể tôi đã đọc một cuốn sách nào đó về vấn đề này nhưng tôi không nhớ nữa. Nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, tôi đã nghĩ ra một hệ thống cho phép tôi ngắt dây thần kinh căng thẳng và gác lại những câu hỏi dai dẳng khi đi ngủ. Tôi biết rằng nếu không làm vậy, tôi sẽ không thể hăng hái và tươi mới để làm việc với khách hàng vào sáng hôm sau. Tôi hình dung tâm trí mình giống như một chiếc bảng đen đầy những thông báo khẩn cấp trên đó, và tôi đã luyện cách tưởng tượng ra một bàn tay với một chiếc giẻ lau sạch chiếc bảng đen đó. Tôi khiến cho tâm trí mình hoàn toàn trống rỗng. Nếu một ý nghĩ bắt đầu xuất hiện, tôi sẽ chặn nó lại ngay. Tôi sẽ lau sạch trước khi nó kịp hình thành. Sau đó, tôi sẽ thả lỏng cơ thể, bắt đầu từ phía sau cổ, tiếp tục xuống vai, cánh tay, thân, hai chân, rồi đến các đầu ngón chân. Đến lúc này, tôi đã chìm vào giấc ngủ. Tôi học được quy trình này khá nhanh. Một số người kinh ngạc khi thấy tôi có thể làm việc 12-14 giờ một ngày, tham gia một buổi hội nghị bận rộn, sau đó dạo quanh với khách hàng tiềm năng đến tận 2-3 giờ sáng, và vẫn có thể ra khỏi giường sớm để sẵn sàng nắm lấy cơ hội gặp khách hàng tiếp theo. Bí mật của tôi là tận dụng tối đa từng giây phút được nghỉ ngơi. Tôi nhẩm tính mình ngủ được trung bình không quá 6 giờ một đêm. Nhiều đêm tôi chỉ ngủ có 4 giờ hoặc ít hơn. Nhưng tôi ngủ say sưa như khi làm việc.

Khoảng thời gian đó, mọi thành phần xã hội đều căng thẳng, sợ hãi trước những diễn biến đáng báo động ở châu Âu và châu Á. Các tờ báo thì suy đoán rằng liệu chiến tranh với Nhật Bản có thể tránh khỏi hay không. Rồi sự chú ý của người Mỹ lại chuyển hướng từ cuộc xâm lăng của Nhật Bản ở Trung Quốc sang các cuộc xâm chiếm của Đức quốc xã tại châu Âu. Vào ngày 7 tháng Mười hai năm 1941, người Mỹ đã buộc phải tham chiến bởi cuộc tấn công lén lút của Nhật Bản vào Trân Châu Cảng, còn tôi thì bị buộc phải ngừng kinh doanh máy Multimixer. Việc cung cấp dây đồng, dùng để cuộn động cơ cho Multimixer, đã bị cấm để phục vụ cho cuộc chiến.

Một người bán hàng mà không có sản phẩm chẳng khác nào một nghệ sĩ vĩ cầm không có vĩ kéo. Vì vậy, tôi đã tìm kiếm khắp nơi và hợp tác với Harry B. Burt để bán một dòng sản phẩm sữa bột lúa mạch ít béo và cốc giấy 16oz, loại thức uống được gọi với cái tên Malt-a-Plenty. Nó được pha trộn trong cốc bằng cách sử dụng ống nối kim loại, giống như món One-in-a-Million. Tôi liên tục giục Earl Prince đưa ra một số ý tưởng mới để bán hàng, nhưng có vẻ như ông ấy không thể nghĩ thêm ý tưởng nào hợp pháp hoặc có lý cả. Tôi kiếm sống bằng Malt-a-Plenty, nhưng việc trả hết nợ cho John Clark đã trở thành cơn ác mộng thực sự. Thế nhưng tôi đã làm được, và khi Thế chiến II kết thúc, tôi đã có thể trở lại để bán Multimixer một cách tự chủ hoàn toàn. Đó là một cảm giác thật vinh quang.

Công việc kinh doanh của tôi được phục hồi sau chiến tranh, và chẳng bao lâu sau, nó trở nên tốt hơn bao giờ hết. Các nhà cung cấp kem tươi đang khởi sự kinh doanh dưới hình thức nhượng quyền, và tôi có mặt ở đó, liên tục mở rộng thị trường cho chiếc Multimixer, cung cấp máy cho các chuỗi cửa hàng kem lớn như Dairy Queen, Tastee-Freeze, và rất nhiều tiệm khác. Tôi bán một chiếc Multimixer cho một chàng trai có tên là Willard Marriott, người vừa mở một cửa hàng drive-in có tên là A&W Root Beer. Cách vận hành của anh ta đã thu hút tôi. Tôi tự coi mình là một chuyên gia về những căn bếp. Việc bán máy Multimixer đã giúp tôi có dịp đến thăm hàng ngàn căn bếp của các nhà hàng. Tôi tự hào vì mình có thể chỉ ra nhà hàng nào sẽ thu hút khách hàng, và nhà hàng nào sẽ thất bại, thông qua quan sát hoạt động của họ. Nhìn cách Willard Marriott làm việc, ngay từ đầu, tôi đã biết rằng anh ta sẽ thành công. Anh ta sau này trở thành ông chủ của tập đoàn Marriott Corporation hùng mạnh trong lĩnh vực nhà hàng và khách sạn. Những ngày đó, tôi cũng dành rất nhiều thời gian lê la ở các quán bar. Tôi đến đó với vai trò là một nhà phê bình hơn là một khách hàng. Toàn bộ ngành công nghiệp pha chế đồ uống dường như quá nhạt nhẽo đối với tôi. Nó cần phải trở nên sống động và hấp dẫn hơn với những đồ uống mới có sử dụng kem. Tất nhiên là chúng sẽ được trộn bởi chiếc Multimixer. Món đồ uống pha chế yêu thích của tôi là rượu brandy, rượu vị bạc hà hoặc ca cao, hoặc rượu Kahlua hương cà phê kết hợp với kem. Cách kết hợp này sẽ thu được một hỗn hợp mềm mịn có thể dùng như là đồ uống sau bữa tối hay món tráng miệng. Tôi gọi nó là Delacato. Evergreen, một nhà hàng đồ nướng nổi tiếng ở Dundee, Illinois, phục vụ món Delacato trong ly champagne, khách sẽ ăn bằng thìa hoặc nhấm nháp bằng một chiếc ống hút nhỏ. Rõ ràng là phát minh của tôi đã không làm thay đổi thói quen thưởng thức đồ uống của cả một quốc gia, nhưng nó cũng là một ý tưởng thú vị.

Các chuyến đi bán máy Multimixer của tôi đều xoay quanh các hội nghị của hiệp hội ngành nhà hàng và sữa. Tôi tham gia vào tất cả các triển lãm quốc gia và khu vực. Tôi thường gửi hàng tá chiếc máy Multimixer từ nhà máy của chúng tôi ở phía nam bang Illinois đến các triển lãm qua đường tàu cao tốc. Khi đến nơi, tôi sẽ trưng bày vài chiếc trong gian hàng của mình, những chiếc còn lại sẽ được đặt ở các quầy của các công ty lớn sản xuất máy cung cấp nước giải khát như là Liquid Carbonic, Bastion-Blessing, Grand Rapids Soda Fountain, và một số hãng khác. Ở các cuộc triển lãm đó, bao giờ tôi cũng bán hết sạch số máy mang đến, nhiều khi phải đặt hàng thêm từ nhà máy. Đó là lý do tại sao tôi thường sợ ngày cuối cùng của cuộc triển lãm. Tôi phải đóng gói những chiếc máy để giao hàng cho người mua. Tôi chẳng hề khéo tay nên việc đóng thùng những chiếc máy đó luôn là khoảng thời gian giải lao được làm thi vị hơn nhờ những mảnh vỡ, các vết chầy xước ngón tay và đầy ắp những lời chửi rủa. Theo lẽ tự nhiên thì việc kinh doanh này cũng đáng để phải bực mình như vậy, nhưng đôi khi tôi ước gì mình đã chọn bán một thứ gì khác có thể cho vừa vào túi quần.

Va ly mẫu đựng Multimixer của tôi nặng tới gần 23kg. Tôi đã gắn bánh xe đáy va ly để tôi có thể kéo nó dưới đường như xe đẩy trẻ con. Nhưng thật là rắc rối khi phải vác nó vào và ra khỏi taxi hoặc đi lên những đoạn cầu thang dài.

Tôi chẳng thèm bận tâm đến việc đặt ra các mục tiêu bán hàng. Tôi không cần tự tạo bất kỳ động cơ nào mà vẫn có thể làm việc chăm chỉ với cường độ cao nhất. Theo ước tính tính thì một năm bán được 5.000 máy là đạt mức doanh số cao. Có một vài năm tôi đã đạt được mức đó, thậm chí năm 1948 hay 1949, tôi không nhớ rõ nữa, tôi bán được 8.000 máy.

Với lượng bán hàng lớn như vậy, tôi ngày càng khó khăn khi phải điều hành từ xa, không ở trực tiếp văn phòng của mình. Tôi cần thêm sự hỗ trợ nhưng tôi lại không sẵn sàng thuê một nhân viên văn phòng khác. Nói chuyện để thuyết phục Ethel thì không có kết quả, cô ấy đã từ chối rất rõ ràng. Công việc kinh doanh thì chưa đủ lớn mạnh để trả lương cho một nhân viên nữa. Nhưng cuối cùng vào cuối mùa thu năm 1948, kế toán của tôi, Al Doty, thuyết phục tôi đã đến lúc phải thêm một nhân viên sổ sách nữa. Và tôi tôn trọng ý kiến của cậu ấy. Al Doty từng được bạn của tôi, Al Handy, ở ngân hàng Harris Trust & Savings giới thiệu, và công ty của cậu đã đảm trách công việc kế toán cho tôi trong nhiều năm. Dù sao đi nữa, Al đã thuyết phục được tôi và chúng tôi đã đăng quảng cáo tuyển dụng trên các tờ báo giấy. Tôi không thể nhớ là đã phỏng vấn bao nhiêu người, nhưng tôi sẽ không bao giờ quên người vô gia cư rất tài giỏi đã trúng tuyển công việc đó. Chỉ sau vài phút nói chuyện với June Martino, tôi tin chắc rằng đây chính là người mình cần thuê. Cô ấy mặc một chiếc áo khoác đã bị sờn vải trông y như cơn bão tháng Mười hai vừa ập xuống hẻm núi LaSalle Street ngày hôm đó, và trông cô như thể đã mấy bữa liền không ăn uống gì rồi. Tuy nhiên, vẻ ngoài của cô toát lên sự chính trực và một khả năng thiên bẩm có thể giải quyết các vấn đề không biết mệt mỏi. Điều này được ẩn chứa bên trong tính cách ấm áp và bao dung, thật là một sự kết hợp hiếm có của các nét tính cách. Việc cô không có kinh nghiệm trong việc làm sổ sách không làm tôi lo lắng chút nào cả. Tôi biết cô sẽ thành thạo các kỹ năng nghiệp vụ sớm mà thôi. Vì vậy, tôi nói với cô ấy rằng tôi không thể trả lương cao, nhưng nếu cô vẫn sẵn sàng làm việc chăm chỉ, tôi có thể hứa hẹn ở một tương lai tươi sáng. Chúng tôi đã nói chuyện rất hợp nhau. Thực tế là cô đã làm việc rất chăm chỉ, và trong vòng chưa đầy 20 năm, đã trở thành một trong những nữ cán bộ cấp cao hàng đầu, là thư ký và thủ quỹ của Tập đoàn McDonald’s.

June đến từ một gia đình gốc Đức ở phía tây bắc Chicago và bố mẹ cô không biết lo cho tương lai của các con. June Martino và Louis Martino cưới nhau ngay trước Thế chiến II. Anh ta là kỹ sư của công ty Western Electric, và công ty muốn anh ta được miễn trừ nghĩa vụ quân sự vì đang tham gia nhóm phát minh cáp đồng trục, một phát minh rất quan trọng cho trong hệ thống thông tin quốc phòng. Một ngày nọ June mang một số giấy tờ đến phòng quân lực, nơi đang phụ trách việc đánh giá khả năng được miễn trừ của Louis. Khi cô rời đi, anh ấy đã được miễn không phải nhập ngũ nữa, nhưng cô đã tuyên thệ sẽ trung thành với đất nước. Cô đã quá yêu nước và phấn khích đến nỗi mất kiểm soát. Là một thành viên của Quân đoàn phụ nữ Hoa Kỳ, cô học chuyên ngành điện tử tại Đại học Northwestern, nghiên cứu về lượng giác, giải tích và nhiều môn khác nữa. Cô phải học những môn đó qua các buổi gia sư chuyên sâu, vì cô không có khả năng đặc biệt về toán cao cấp. Nhưng không có thách thức nào là quá lớn đối với cô. Nếu chưa biết điều gì đó, cô ấy sẽ lục lọi bằng được toàn bộ sách trong thư viện để học.

Cuối cuộc chiến tranh, June đã là bà mẹ của hai đứa con. Sau đó, cha cô và mẹ của Louis đều bị bệnh nặng. Chẳng bao lâu, họ đã nợ nần đến 14.000 đô-la. Họ quyết định di chuyển cả gia đình, bao gồm cha cô, mẹ Louis, bọn trẻ và hai vợ chồng, đến một trang trại gần Wisconsin Dells. Nhà ở đó giá rẻ, và họ có thể tự nuôi trồng để đáp ứng cho các bữa ăn của gia đình. Louis dự định sẽ tìm việc ở một cửa hàng sửa chữa tivi và làm nông nữa. Thời ấy, rất nhiều cặp vợ chồng trẻ cũng đến đó và làm các công việc như vậy để kiếm sống. Có thể một vài cặp vợ chồng sẽ thành công, nhưng rất nhiều các cặp khác, bao gồm cả vợ chồng June, nhận thấy họ chẳng thể làm được gì cả. Louis không thể nghỉ công việc hiện tại để chuyển đến Chicago tìm việc, vì vậy June đã đi một mình. Cô ở cùng một người bạn, trong thời gian đó, cô bám riết lấy các trung tâm tuyển dụng việc làm. Đó là toàn bộ câu chuyện phía sau buổi phỏng vấn June ở văn phòng của tôi vào cái ngày giá buốt tháng Mười hai năm ấy.

June hấp dẫn người khác ở việc dù có cảm nhận rất tốt về kinh doanh, cô vẫn hoàn toàn ngây thơ về vấn đề tiền bạc. Cô cũng có một trực giác rất nhạy bén. Đôi khi trực giác của cô ấy dựa vào tâm linh, và cô có một đức tin của một đứa trẻ về điều đó. Tôi thấy được đức tin của cô ấy ngay từ ngày làm việc đầu tiên. Tôi bảo June đến ngân hàng để gửi tiền. Cô kể rằng cô ấy có 20 xu, đủ trả tiền vé tàu điện ngầm để về nhà. Nhưng khi đi qua ban nhạc Salvation Army đang chơi ở một góc phố, điều gì đó từ sâu trong tâm mách bảo cô không thể cứ thế đi và giữ nguyên số tiền đó trong ví. Vì vậy, cô ấy ném hai đồng 10 xu vào cái bình cho họ và đi đến ngân hàng. Khi trở lại văn phòng, cô cảm thấy vô cùng hạnh phúc.

“Anh Kroc này, hôm nay thật là một ngày tuyệt vời! Tôi được nhận công việc này, và cũng là ngày sinh nhật con trai tôi. Dĩ nhiên là giờ này thằng bé vẫn đang làm việc ở nông trại, và tôi ước gì có thể mua cho nó một món quà nhưng dường như không thể được.” Sau đó cô kể với tôi về việc cô đã ném cho ban nhạc Salvation Army 20 xu còn lại của mình như thế nào. Trên đường từ ngân hàng về lại văn phòng, guốc của cô bị mắc kẹt trên vỉa hè. Cô nhìn xuống để gỡ nó ra, và ở đó, ngay bên cạnh chân cô, là một đồng 20 đô-la! “Tôi trở lại ngân hàng và hỏi những nhân viên giao dịch liệu có biết ai đã đánh mất tờ tiền đó không. Một trong số họ nhìn tôi và nói: ‘Thưa bà, tôi nghĩ bà hoàn toàn có quyền giữ nó.’ Ông có thể tưởng tượng được sao tôi lại may mắn như vậy không?”

Đó là một trong những kiểu may mắn điển hình thường xảy đến với June. Tôi nghĩ rằng thật tốt khi có một người may mắn ở bên cạnh, có thể tôi cũng được may lây chăng. Và có lẽ đúng là như vậy. Sau khi McDonald’s phát triển, chúng tôi xây dựng một đội ngũ nhân sự lớn hơn, tất cả họ đều gọi cô là “Mẹ Martino”. Bà dõi theo dõi cuộc sống gia đình của tất cả các nhân viên, ai có vợ vừa sinh con, ai đang gặp khó khăn về hôn nhân, hay là ai có ngày sinh nhật hôm nay. Bà đã biến văn phòng trở thành một nơi hạnh phúc.

Công việc kinh doanh của tôi vào đầu những năm 1950 diễn ra không mấy suôn sẻ. Al Doty đã từng nói với tôi rằng anh ấy thích ăn trưa với tôi bởi vì anh ấy luôn học được điều gì đó về xu hướng kinh doanh. “Ông dường như có thể nhìn thấy được tương lai xa hơn so với mọi người,” anh nói. Tôi cũng tin rằng mình có khả năng đó. Và những gì tôi nhìn thấy về tương lai đã khiến tôi không mấy vui vẻ. Rõ ràng là thời kỳ của những chiếc Multimixer đã sắp kết thúc. Các cổ đông của Liquid Carbonic Corporation đã tham gia vào một cuộc chiến tranh giành quyền lực. Người được thừa kế vị trí chủ tịch thì quyết tâm tiếp tục vận hành nhà máy sản xuất máy cấp nước giải khát của công ty vì sự cống hiến tận tụy của các nhân viên nhà máy trong nhiều năm trời. Các đối thủ của ông muốn loại bỏ mảng kinh doanh này vì nó đang thua lỗ. Họ đã thắng. Các nhà máy khác cũng bị cắt giảm. Dấu hiệu của ngày kết thúc thời kỳ Multimixer đã rõ ràng, và Walgreen càng làm rõ hơn khi lần đầu tiên, họ loại bỏ các quầy kinh doanh nước giải khát ra khỏi chuỗi cửa hàng của mình.

Tôi biết rằng kết quả của tất cả những sự kiện trên là tôi phải tìm một sản phẩm mới. Tôi thích tìm được một thứ gì đó đủ sáng tạo và hấp dẫn như chiếc Multimixer hồi 15 năm trước. Tôi nghĩ rằng mình đã tìm ra nó: một bộ bàn ghế xếp nhà bếp độc đáo mà hàng xóm của một trong những nhân viên bán hàng của tôi đã tạo ra. Ý tưởng đó thu hút tôi, vì vậy tôi đã đến thăm nhà người đàn ông đó để xem nó. Bộ bàn ghế nhà bếp xếp gọn lại trong tường như một cái bàn ủi. Nó giống như một ý tưởng tiết kiệm không gian tuyệt vời cho các căn bếp nhỏ. Tôi thuê Louis Martino thiết kế một sản phẩm mẫu. Nó trông thật tuyệt vời. Có một vài điểm tôi chưa ưng ý lắm, nhưng sự lo lắng phải có được một sản phẩm mới cho các nhân viên bán hàng đi thị trường đã bỏ qua những nghi ngờ của tôi. Tôi đặt cho nó cái tên “Fold-a-Nook” và vận chuyển mẫu đến khách sạn Beverly Hills ở California, nơi tôi định tổ chức một buổi giới thiệu hoành tráng.

Tất cả các nhà phát triển và xây dựng hàng đầu tôi đã mời trong dịp này đều đến và nhâm nhi những ly cocktail trong căn phòng sang trọng tôi thuê. Họ ngưỡng mộ những bông hoa tươi và hết sức ca ngợi các món ăn nhẹ. Bữa tiệc thành công rực rỡ, nhưng “Fold-a-Nook” là một thất bại to lớn. Tôi không nhận được dù chỉ một đơn đặt hàng.

Mặc dù thất vọng vì không mấy ai quan tâm đến sản phẩm ở California, tôi vẫn theo đuổi dự án đó. Nhưng tôi và June Martino không hề biết rằng chính nhân viên đã giới thiệu sản phẩm này với tôi đã mưu phản cùng thư ký riêng của tôi để cướp đi sản phẩm “Fold- A-Nook”. Tôi sa thải cả hai ngay lập tức. Họ đáp lại tôi bằng cách sao chép “Fold-a-Nook” và giới thiệu nó dưới một cái tên khác. Người đó là đồng nghiệp và là bạn cùng chơi golf với tôi từ những ngày ở Lily Tulip Cup, tôi từng cho ông ta vay tiền để trả tiền nhà. Dù vậy, tôi cũng chẳng lấy gì làm vui khi thực tế, họ đã bị phá sản sau đó. Tuy nhiên cũng vì lý do đó mà tôi không thèm nghe một lời nào khi một thời gian sau, ông ta gọi điện thoại xin tôi một cơ hội vào làm cho McDonald’s. Một nhà điều hành giỏi không thích những sai lầm. Thi thoảng anh ta có thể cho phép các cấp dưới trung thực của mình mắc lỗi, nhưng anh ta sẽ không bao giờ bỏ qua hoặc tha thứ cho sự không trung thực.

Không lâu sau thất bại “Fold-a-Nook”, tôi đã bị mê hoặc bởi những câu chuyện của anh em nhà McDonald và việc tám chiếc máy đánh sữa Multimixer phải hoạt động liên tục để tạo ra những cốc sữa lắc trong nhà hàng của họ ở San Bernardino đầy nắng. “Cái quái gì vậy?” Tôi nghĩ. “Tôi sẽ phải tận mắt chứng kiến.” Vì vậy, tôi lê cái thân già 52 tuổi của mình đáp chuyến bay đêm về phía tây đi tìm một tương lai mới.

Ray Kroc Đã Tạo Nên Thương Hiệu Mcdonald’S Như Thế Nào?

Nguồn: Internet

BÌNH LUẬN

Please enter your comment!
Please enter your name here